Wir verwenden Cookies und Daten, um
Wir verwenden Cookies und Daten, um
Combo Đồ Da Cá Sấu: Túi + Giày + Ví + Nón + Thắt Lưng
Những sản phẩm ví da cá sấu, túi da cá sấu, thắt lưng da cá sấu… tại Xưởng Sản Xuất Đồ Da Sấu VR360 được chúng tôi trau chuốt tỉ mỉ từ nguyên liệu da loại tốt nhất đến chất liệu chỉ may (da cá sấu, da bò, da đà điểu, da cá đuối…). Chất da cao cấp, thuộc da theo tiêu chuẩn của nước ngoài, với công nghệ thuộc da tiên tiến nên có độ bền cực cao và đa dạng màu sắc, sản phẩm rất bền bỉ với thời gian.
Da cá sấu được ví là “kim cương” trong các loại da, da cá sấu vốn dĩ được sinh ra để chống chịu với sự ăn mòn của tự nhiên và thời gian. Vì được làm từ da cá sấu thuộc nguyên tấm có rất nhiều ưu điểm như: độ bền cực kì vượt trội, sáng bóng tự nhiên, thời gian sử dụng càng lâu thì độ bóng càng nhiều, các hoa văn đặc trưng tự nhiên độc lạ, độ thoáng khí cao, cách nhiệt, không tĩnh điện, dẻo dai, co giãn giúp bề mặt da không bị nứt khi uốn cong hay gấp lại. Vì vậy, đây là nguyên liệu được dùng làm sản phẩm cho các phụ kiện thời trang xa xỉ, đặc biệt có ý nghĩa và sức hút mãnh liệt với nam giới. Nó không chỉ thể hiện sự nam tính, phong cách hơn với các loại da bò, da heo, da đà điểu,…mà còn sự bản lĩnh, đẳng cấp bền và đẹp nhất trong tất cả loại da. Những sản phẩm làm từ da cá sấu như túi da cá sấu, ví da cá sấu, thắt lưng da cá sấu, giá thành của các sản phẩm da cá sấu lại không quá cao chính là món quà hoàn hảo vô cùng ý nghĩa dành tặng cho bậc ân nhân giúp đỡ chúng ta lúc khốn khó cùng cực nhất. Đặc biệt nhất là người thân và đấng sinh thành nuôi dưỡng chúng ta đến tận bây giờ. Tin chắc rằng với các mẫu sản phẩm được làm từ da cá sấu này sẽ là món quà đầy ý nghĩa và trọn vẹn nhất!
Một số các phân biệt da cá sấu thật.
Cầm và cảm nhận bề mặt sản phẩm.
Da cá sấu trơn (phần bụng và phần hông) là phần có độ đàn hồi và co giãn mềm dẻo cực tốt khi làm sản phẩm như bóp/ví, thắt lưng, túi sẽ không bị nứt khi uống cong hay gấp lại, mặt da nhiều lỗ chân lông, độ hút và độ thoáng khí cao cầm vào rất bám và chắc tay. Khi nhỏ một vài giọt nước vào các chỗ vân da sẽ thấy hiện tượng da hút nước và thâm đen chỗ khu vực tiếp xúc nước (khi kiểm tra bằng nước trên da màu sáng dễ thấy nhất, màu đen và nâu đen hơi khó nhận ra).
Da cá sấu gai (gù, gai lưng) cá sấu rất cứng, ấn vào thấy rất chắc chắn, tay của chúng ta cảm thấy đau nhẹ, vì cấu tạo của phần này chủ yếu là sụn và da, không có thịt. Gai từ phần đuôi trở đi thì mềm hơn, dó cấu tạo từ thịt, sụn và da, sụn ở phần đuôi không còn nhiều mà chủ yêu là thịt, nên khi dùng tay nhấn vào cảm giác phần da sẽ bị lõm xuống, mềm hơn phần gù và gai lưng.
Quan sát trực tiếp bằng mắt thường:
Quan sát các đường chỉ nhỏ ở các vân lớn cũng là cách phân biệt da cá sấu thật và da bò giả da cá sấu. Da cá sấu thật khi quan sát kỹ ở các rãnh vân lớn, chúng ta sẽ thấy các vân nhỏ li ti dọc theo vân lớn (giống như chỉ tay của chúng ta), nếu quan sát tại các rãnh mà không thấy những đường chỉ li ti này, chúng ta có thể kết luận ngay đó không phải là da cá sấu thật. Ngoài ra, vân da túi đeo chéo da cá sấu không đều, vì là vân được hình thành tự nhiên, nên các hoạ tiết to nhỏ khác nhau, nếu một tấm da hoặc sản phẩm có vân cá sấu đều nhau thì có thể đó là da bò giả da cá sấu.
Kiểm tra bằng các tác động vật lý bên ngoài (không khuyến khích thử nếu chưa có kinh nghiệm)
Có nhiều cách để kiểm tra sản phẩm có phải là da thật (da tự nhiên từ động vật) hay da giả (da nhân tạo được tạo thành từ cao su), hai cách được sử dụng nhiều nhất là thử thấm nước và thử lửa, khi công nghệ ngày càng phát triển thì việc cắt da để xem lõi bên trong cũng là một cách để kiểm tra, đối với việc cắt da đòi hỏi phải có kiến thức và kinh nghiệm về da thuộc mới nên làm.
Thử thấm nước: nhỏ 1-5 giọt nước lên bề mặt da, nếu là da thật nược sẽ thấm vào bên trong. Có trường hợp nước sẽ không thấm vào trong da: một là tại vị trí nhỏ nước, da liên kết chặt chẽ, mức độ thấm nước chậm và ít nên không thể quan sát bằng mắt thường; hai là da giả, da được làm từ simili (cao su dẻo) sẽ không thấm nước. Lúc này, chúng ta đổi vị trí nhỏ nước, thử nhỏ vài giọt vào các rãnh của vân da, tại đây nước sẽ thấm hút mạnh, có thể quan sát bằng mắt thường thấy nước ngấm vào trong làm da sậm màu, để lâu nước bay hơi thì màu sắc của da sẽ trở lại bình thường.
Thử lửa (không khuyến khích nếu chưa nhiều kinh nghiệm): khái niệm đồ da đốt không bị cháy đã bị làm dụng rất nhiều và bị đánh tráo khái niệm, chúng ta phải hiểu rằng da tự nhiên là da được lấy từ động vật (bò, cá sấu, đà điểu, kỳ nhông, trăn, rắn,…) đều là chất hữu cơ, chúng chỉ được xử lý làm mềm, thuộc màu, khử mùi chứ không thể đốt không cháy. Mọi vật đều có nhiệt độ nóng chảy và da thật cũng vậy, chỉ cao hơn da nhân tạo nên nhiều người lầm tưởng da thật đốt không cháy.
Nếu cả hai loại da đều cháy thì VR360 sẽ chỉ bạn cách phân biệt hiện tượng cháy của hai loại da này. Da thật khi cháy sẽ có hiện tượng kết tủa rắn (các chất hữu cơ khi cháy sẽ co lại, tạo thành cục màu đen), có mùi khét, giống với mùi tóc khi đốt. Tuỳ vào cấu tạo của loại da động vật được lấy đi thuộc, vị trí đốt sẽ đen và tính chất gần giống như than củi, bạn sẽ thấy bụi mịn nhưng lẫn cặn tại vị trí đó. Da giả khi cháy sẽ có hiện tượng kết tủa lỏng (các chất hoá học khi phản ứng với nhiệt độ sẽ nóng chảy), mùi khi đốt sẽ có lẫn ca su, giống với mùi khi đốt các túi nilon (hiện tượng giống với đốt da giả). Cũng tuỳ vào hàm lượng các chất hoá học có trong da giả, sẽ khiến da sẽ nóng chảy hoặc co lại nhưng không tạo thành cục, chỉ khi kết thúc quá trình đốt và để nguội thì mới tạo cục.
Hướng Dẫn Cách Sử Dụng Và Bảo Quản Sản Phẩm Da Cá Sấu Đúng Cách
Mặc dù da cá sấu được ví là loại da “kim cương” nhưng nếu sử dụng sai cách cũng sẽ làm giảm đi tuổi thọ của sản phẩm một cách nhanh chóng, dưới đây là một số cách mà VR360 sẽ giúp bạn bảo quản sản phẩm của mình được tốt và lâu bền hơn:
– Không được để sản phẩm đồ da cá sấu bóp ví túi xách da cá sấu , thắt lưng… của bạn tiếp xúc trức tiếp với ánh nắng mặt trời hoặc những nơi có nhiệt độ cao trong thời gian dài, việc sử dụng sản phẩm ngoài nắng không ảnh hưởng quá nhiều tới màu sắc của sản phẩm, nhưng khi phơi nắng sản phẩm, màu sắc thuộc da dễ bị nhạt màu.
– Tuyệt đối không tiếp xúc với nước, hoặc để ở những nơi có độ ẩm cao để lâu ngày sẽ bị ẩm mốc có mùi rất khó chịu, khi sản phẩm bị ướt phải được làm khô và đánh lại sáp chuyên dụng cho da cá sấu để đề phòng bị mốc và tăng độ bền cho sản phẩm.
CHẾ ĐỘ BẢO HÀNH TẠI ĐỒ DA CÁ SẤU VR360
– Bảo hành da trọn đời 3K: không bong, không tróc, không nổ. Lưu ý: không bảo hành do hao mòn khi sử dụng. Không phục hồi da và màu sắc như hiện trạng ban đầu. – Bảo hành phụ kiện 6 tháng, sửa chữa và thay thế miễn phí. Sau 6 tháng có tính phí tuỳ theo phụ kiện sửa chữa hoặc thay thế. – Đánh bóng làm sạch miễn phí trọn đời. Phủ màu và vệ sinh tổng quát có tính phí (giá tuỳ theo sản phẩm).
Chính sách bảo hành áp dụng cho tất cả sản phẩm được bán tại Đồ Da VR360 (trừ dây đồng hồ và các sản phẩm không làm từ da), các sản phẩm ngoài đều tính phí. Quý khách hàng khi đến bảo hành vui lòng đọc số điện thoại để nhân viên kiểm tra thời gian bảo hành.
Hiện tại ĐỒ DA VR360 chỉ có duy nhất một cửa hàng tại địa chỉ 1352 Trường Sa, Phường 3, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, trang web chính thức có tên miền https://tuidacasau.vn/. Mọi cửa hàng và trang web khác đều không thuộc Đồ Da VR360, chúng tôi không chịu trách nhiệm khi khách hàng mua sản phẩm kém chất lượng tại các cửa hàng giả mạo.
Cám ơn quý khách đã tin tưởng và ủng hộ Đồ Da VR360 suốt thời gian qua.
Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tác giả Hồ Chí Minh với tác phẩm Chiều tối bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Từ ấy - Tố Hữu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Lai Tân - Hồ Chí Minh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Nhớ đồng - Tố Hữu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Nguyễn Bính gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Tương tư - Nguyễn Bính bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Anh Thơ gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Chiểu xuân - Anh Thơ bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Pu-skin gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Tôi yêu em - Pu-skin bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả R.Ta-go gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Bài thơ số 28 - R.Ta-go bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Sê-khốp gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Người trong bao - Sê-khốp bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Hu-gô gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Người cầm quyền khôi phục uy quyền - V.Hu-gô bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Phan Châu Trinh gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Về luân lí xã hội ở nước ta - Phan Châu Trinh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Nguyễn An Ninh gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức - Nguyễn An Ninh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Ăng-ghen gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Hoài Thanh gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tràng giang - Huy Cận bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Huy Cận gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Vội vàng - Xuân Diệu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Xuân Diệu gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Hầu trời - Tản Đà bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Tản Đà gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Phan Bội Châu gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Hàn Mặc Tử (1912-1940), người đi qua thơ Việt Nam "như một niềm kinh dị". Tác phẩm chính: Gái quê (1936), Thơ Hàn Mặc Tử (1942), trong đó có một phần lấy từ các tập thơ chưa in khi tác giả còn sống: Xuân như ý, Thơ điên v.v...
Trong bài thơ Thương ngô trúc chi ca số XIII, Nguyễn Du từng tả cây liễu "Tối điên cuồng xứ tối phong lưu" (dịch nôm: lúc càng điên càng đẹp, khiến người ta say mê).
Chỗ xứng đáng để đặt câu mang tinh thần hiện đại ấy có lẽ là một phòng tranh nào đó của các họa sĩ lớn thế kỷ XX.
Nhưng cũng sẽ rất thích hợp nếu người ta dùng nó, cái quan niệm mỹ học phóng túng đó, để soi sáng cho một hiện tượng kỳ lạ của thi ca Việt Nam: những tập thơ Gái quê, Đau thương, Xuân như ý... của Hàn Mặc Tử.
Không kể thơ cổ điển mà ngay thơ Việt Nam hiện đại cũng có cái giọng thiên về chừng mực. Với phong trào Thơ mới, tâm hồn dân tộc đã làm một cuộc bộc bạch khá cởi mở, ở đó, cùng lúc người ta bắt gặp cái say đắm nồng nàn của Xuân Diệu, những phút giây ngà ngà ngơ ngẩn ở Lưu Trọng Lư, những phen chuếnh choáng lảo đảo cố ý ở Vũ Hoàng Chương. Nhưng bằng ấy sự say sưa đều dừng lại khá xa trước ranh giới sự điên dại. Chỉ riêng có một mình Hàn Mặc Tử - do những may mắn ngẫu nhiên mà cũng là những bất hạnh trời đầy, như mọi người đều biết, xui khiến - đã phiêu lưu vào khu vực ấy, khu vực của những kích động tình cảm lên tới cùng cực, khu vực của những mê man quyến rũ gần như mất trí. Và trước mắt chúng ta là một giọng thơ độc đáo không chia sẻ âm hưởng với ai hết.
Trung thành với một tập quán đã thành truyền thống, ở Xuân Diệu, Huy Cận cũng như ở nhiều người khác, thi sĩ bao giờ cũng hiện ra như một người tinh tế, dịu dàng, chỉ sợ mỗi cử động mạnh của mình làm kinh động cả đất trời. "Tôi với người yêu qua nhè nhẹ - Im lìm không dám nói năng chi" (Trăng - X.D) hoặc "Chân bên chân hồn bên hồn yên lặng" (Đi giữa đường thơm - H.C). Đến Hàn Mặc Tử, thì cách nói, cách tiếp nhận đời sống khác hẳn, người làm thơ không có thì giờ nghĩ về mình nên cách bộc lộ có sỗ sàng, sống sượng thậm chí bệnh hoạn cũng không quản ngại. Người quen tìm thấy ở thơ một sự ru rín vuốt ve, một lời vỗ về thông cảm hẳn không thể chịu được khi thấy ở đây thơ rặt một giọng "ái tình bắt đầu căng", "Ô hay người ngọc biến ra hơi" và cả "Khi hương thơm kề lỗ miệng - khi tình mới chạm vào nhau". Trong thơ Hàn Mặc Tử, gió heo may cũng rên xiết, thu héo nấc thành những tiếng khô, và những cây cối mảnh khảnh cũng run lên cầm cập. Đi ngược với quan niệm về sự tế nhị, trong thơ Hàn Mặc Tử, những từ ngữ có liên quan đến động tác của cái miệng luôn luôn được sử dụng, nhà thơ rất hay nói đến máu huyết.
Sau khi bảo mình "thường giơ tay níu ngàn mây - đi lại lang thang trên ngọn cây", sau khi thú nhận "
Thật ra, một người điên không bao giờ biết mình điên, không bao giờ nói to lên rằng theo sự đánh giá thông thường, thì mình bị coi là đã hóa dại rồi. Chẳng qua, Hàn Mặc Tử buộc phải "gào lên, rú lên" như vậy mới nói hết ý mình. Trên đại thể, nhà thơ Việt Nam mất từ 1940 này có thể kí tên sau những phát biểu kì lạ sau đây của một người đương thời với chúng ta và chỉ mới mất đầu 1989 - họa sĩ Tây Ban Nha vĩ đại Salvador Dali.
- Tôi chỉ khác những người điên ở chỗ tôi không điên.
- Mọi hành động sáng tạo đều là hành vi của chứng hoang tưởng tự đại. Nghệ sĩ chẳng khác gì thượng đế. Với động tác của bàn tay họ, họ sáng tạo ra các thiên thể và bản thân họ cũng trở nên một thiên thể. Hành động sáng tạo bao giờ cũng là một hành động mạo hiểm.
So với những thi sĩ đương thời, có một đóng góp của Hàn Mặc Tử mà không ai phủ nhận được là đóng góp vào việc mở rộng biên giới của thơ. Dù có xôn xao chộn rộn trong những tưởng tượng phong phú đến đâu thì những Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư... vẫn còn nặng nợ nhiều với cuộc sống trần tục. Không ai dám mê man đi trên con đường tới cái hư vô như Hàn Mặc Tử, đúng hơn không ai buộc phải làm vậy. Về phần mình, vốn nặng cảm giác tôn giáo lại được sự điên dại hỗ trợ, Hàn Mặc Tử sống với thế giới siêu hình một cách tự nhiên đến mức ông bảo "hư thực làm sao phân biệt nổi". Tiếng thơ trong Đau thương, Xuân như ý đôi khi phải gọi là "lời năn nỉ của hư vô" mà chỉ Hàn Mặc Tử mới nghe được. Nhưng đây mới là một phía, phía thứ hai của biên giới cảm xúc cũng được Hàn Mặc Tử mở rộng: nhà thơ lạ hóa ngay chính mình. Chân tay thân thể da thịt con người, những thứ tưởng ai cũng thấy, những thứ không ai để ý vì chẳng có vẻ gì nên thơ, trong con mắt Hàn Mặc Tử, bỗng trở nên thiêng liêng bí mật. Chúng luôn luôn mời mọc kích động, chúng làm nhà thơ nôn nao cả lên, bỡ ngỡ như gặp được cái gì cả đời mới thấy. Đọc đi đọc lại những "Trăng đang nằm trên cỏ - Cỏ đưa trăng đến bờ ao - Trăng lại đẫm mình xuống nước - Trăng nước đều lặng nhìn nhau - Đôi ta bắt chước thì sao?", những "ống quần xo xắn lên đầu gối, - Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mình", những "Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm - Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe", người ta có thể bảo là sống sượng quá. Nhưng thành thực với mình một chút, phải nhận những câu thơ gợi nhục cảm đó chỉ phóng to lên những rung động mà ta vốn có, chẳng qua ta gạt ngay đi, thành ra ngỡ như chúng không tồn tại. Chính Hàn Mặc Tử cũng từng bị giam hãm trong vòng cương tỏa của thói quen, ông cũng là người bị mặc cảm đè nặng và nhiều câu thơ buột ra như là một sự dứt bỏ, tự giải phóng, nếu không làm sao cái cảm giác bẽn lẽn ngượng ngập, thèm khát sự trong trắng lại thường xuyên đi về trong thơ ông đến vậy.
Khi cho mỗi người đọc cảm thấy rằng sự e lệ ở mình cũng như ở mọi người chẳng qua là một sự e lệ rất tà tâm, quả thật Hàn Mặc Tử đã tiếp cận với nhiều cách hiểu tinh vi về con người hiện đại.
Không có gì thực hơn, gần gặn hơn mà lại hư vô hơn với mỗi kiếp người là cái chết. S. Dali từng kể là ông không ngừng nghĩ đến nó, ông coi nó là bạn đường trung thành nhất của ông, nó ở ngay trong nội tâm ông. Rồi họa sĩ nói tiếp: "Cái chết vận hành trong tôi, không ngưng nghỉ, giống như cát chảy trong đồng hồ cát". Ông hiểu rằng "có một sự hủy diệt tuần tự xảy ra trong đó" bởi vậy, với ông, cuộc sống "lại tỏ ra đẹp đẽ hơn bao giờ hết". Tưởng như những lời thú nhận đó của Dali được viết để cắt nghĩa những câu thơ viết về cái chết đầy rẫy trong thơ Hàn Mặc Tử, nhất là ở những tập ông biết rằng ngày tận thế của mình không xa nữa. Có điều lạ nữa là cái chết hiện diện ngay cả trong những câu thơ Hàn Mặc Tử viết về vẻ đẹp. ở vào ranh giới mỏng manh giữa sự sống và cái chết, vẻ đẹp trong thơ ông là một vẻ đẹp lạnh, ma quái nhưng lại hết sức quyến rũ, giống như sự bùng nổ mạnh mẽ của những gì sắp tàn lụi mà người ta biết là không sao cưỡng nổi. Ai đó đã than: "Phải vì tất cả đều đang đi đến cái chết, nên tất cả mới hiện lên rực rỡ đến thế?!"
Theo Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941 cho biết, ngay từ 1940, Xuân Diệu đã từ chối thẳng thừng Hàn Mặc Tử và bản thân Hoài Thanh cũng cảm thấy rằng chỉ nên nói về Hàn Mặc Tử một cách dè dặt. Sự từ chối đó, sự dè dặt đó là rất thành thực. Đặt trong hoàn cảnh thơ Việt Nam trước 1945, phải thừa nhận thơ Hàn Mặc Tử là một cái gì độc đáo vượt ra ngoài thói quen cảm nhận thông thường như tranh của những S.Dali, H. Miro, J. De Chirico... khi mới xuất hiện đã là không bình thường và ngay ở châu Âu cũng phải rất lâu mới được chấp nhận. Tuy nhiên, khoa nghiên cứu nghệ thuật hiện đại cũng đã chứng minh rằng những tìm tòi lúc đầu bị coi là phi lí, trừu tượng đó đã có mầm mống từ lâu trong tư duy của nhân loại. Ngay từ thời trung thế kỉ, có một họa sĩ Hà Lan là Jerome Bosch (khoảng 1450/ 1460-1516) đã vẽ nên những bức tranh rất gần với Dali, Miro. Nói như một nhà văn Nga, ông V. Tendriakov thì trong Bosch "vẻ dịu dàng ở cạnh phút hấp hối, nét trinh bạch ôm ấp sự trụy lạc, cảm giác hứng khởi xen lẫn cơn tởm lợm, khiến người xem tranh của Bosch vừa sảng khoái vừa ớn lạnh". Khi đã xem tranh của những Dali, Miro và lần về tới Bosch như thế, người ta không có lí do để nói rằng Hàn Mặc Tử cô đơn nữa.
Hàn Mặc Tử trong sự so sánh với
các thi sĩ đương thời - Xuân Diệu, Huy Cận,
Những năm gần đây, báo chí đã đăng tải nhiều bài phê bình - nghiên cứu có giá trị về thơ Hàn Mặc Tử. ở đây chúng tôi chỉ nói thêm về cái độc đáo của nhà thơ này.
Cần nói ngay là theo chúng tôi, phần tiêu biểu trong Hàn Mặc Tử không phải là những Tình quê, Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ; cái đó cũng là Hàn Mặc Tử, lại là thơ rất hay nữa, nhưng không phải tinh chất của tác giả, như những Bẽn lẽn, Trăng tự tử, Trăng vàng trăng ngọc, Hồn là ai, Đêm xuân cầu nguyện... nói chung là các bài trong Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí... Phần thơ tôi nói ở đây ít được tuyển chọn, không được mang cho học sinh học, không được ngâm véo von trên ti vi, trên đài, nhưng lại là những gì chỉ Hàn Mặc Tử mới viết nổi, nên cũng là phần gợi ra suy nghĩ và cần mang ra so sánh.
Theo Hoài Thanh, đương thời Xuân Diệu là thi sĩ có bộ y phục tối tân hơn cả. Tác giả Thơ thơ được coi là mới nhất trong các nhà Thơ mới và chỉ những người còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu.
Đấy là những nhận xét chính xác với nghĩa: nếu như có một khuôn khổ thì Xuân Diệu đã đi đến hết khuôn khổ đó. Còn nếu so sánh với Hàn Mặc Tử thì có thể nghĩ khác. Hàn Mặc Tử vượt ra ngoài cái khuôn khổ thông thường, khiến người ta ngán luôn, không muốn nói tới nữa. Hàn Mặc Tử tự nhận: "Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ? Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật". ở Xuân Diệu, không có cái bí mật ấy để mà phản bội. Cùng lắm Xuân Diệu mới đắm say, chứ chưa mê man đến mất trí như nhà thơ bị trọng bệnh. Cảm giác về trăng trong Xuân Diệu kể cả khi đó là cái thứ "lung linh bóng sáng bỗng rùng mình" hoặc "trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết" vẫn là loại cảm giác thông thường. Còn trăng trong Hàn Mặc Tử thì ma quái, thoắt thế này, thoắt thế khác. Hình như cả trong thơ phương đông lẫn phương tây, chưa ở đâu trăng lại được mô tả lẫn với máu huyết và lai láng, nhày nhụa như trong các bài thơ Hàn Mặc Tử làm khi đau ốm. Lại nữa, trăng ở đây ít nhiều thường có quan hệ với nhục cảm. Trăng khêu gợi thèm muốn. Giữa trăng và đối tượng để người ta chung chạ ân ái như là có sự hóa thân, đắp đổi. Trăng đồng lõa, xúi bẩy, trăng lại hứa hẹn là sẽ che chở thậm chí sẽ ban tặng thêm khoái cảm nếu cơn chung chạ đó xảy ra.
Có một thời, mỗi khi muốn bảo Xuân Diệu là quá tây, người ta lại dẫn ra bài Vội vàng với câu kết:
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Giả thử được xếp lẫn vào thơ Hàn Mặc Tử, câu thơ đó không gợi ra phản ứng gì đặc biệt. Nó còn tế nhị và lành mạnh quá, trong khi thơ Hàn Mặc Tử còn sống sượng và bệnh tật hơn nhiều.
Xuân Diệu mới cảm thấy cái lạnh buốt ở chung quanh. Hàn Mặc Tử nhập vào, trở thành chính cái lạnh đó.
Hồn thơ Xuân Diệu như một con diều bay lên thanh thoát, còn cái dây nối con diều đó với đời sống thơ mỏng manh nhưng bền chắc. Hãy nhớ lại Buồn trăng. ở trên vừa mới Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió, ở dưới đã Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya. Với câu kết ấy, ta cảm thấy sau khi ngang dọc khắp vòm trời, con diều - ở đây là tâm tưởng nhà thơ - lại hạ cánh an toàn xuống mặt đất, điều đó chứng tỏ Xuân Diệu rất tài, và cái việc ông làm thật đáng kính trọng. Còn tâm linh của Hàn Mặc Tử thì luôn luôn như một con diều đứt dây khi quay cuồng, lồng lộn, lúc ủ rũ tìm nơi giải thoát. Xuân Diệu chưa thật bao giờ rõ là mình như khi nhân danh người kĩ nữ mà nức nở: "Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo". Xin đừng có ai chờ đợi một tiếng kêu như thế ở Hàn Mặc Tử, bởi qua thơ người thi sĩ này, thấy toát lên cái ý: miễn là còn được sống, được tồn tại, giá lạnh không có gì đáng sợ. Vả lại trong bất cứ nỗi sợ nào, trong bất cứ mất mát nào cũng có niềm sung sướng kỳ lạ, không ai có thể chia sẻ. Đứng về lịch sử thơ ca mà xét thì Hàn Mặc Tử, trong những tìm tòi của mình, đã đi khá xa so với Xuân Diệu. Trong tác giả Thơ thơ, người ta cảm thấy ảnh hưởng của Baudelaire, dấu vết của de Noailles, và cả Rimbaud lẫn Verlaine (họ đều là những tác giả lớn của văn học Pháp cuối thế kỷ XIX). Chính Xuân Diệu cũng thú nhận là có ý thức đón nhận những ảnh hưởng đó. Còn Hàn Mặc Tử - không biết có phải là ngẫu nhiên chăng - phần nào đã đến gần với A.Breton, P.Eluard, L.Aragon. R.Desnos v.v... những người cùng đứng trong một phong trào thơ ở Pháp, có tên là siêu thực, và xuất hiện khoảng trước sau đại chiến thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, đấy là một phỏng đoán mà chưa phải một kết luận khoa học. Vấn đề quá lớn. Chúng tôi không có tham vọng giải quyết ở đây. Để chứng minh Hàn Mặc Tử là độc đáo xin làm một vài sự so sánh tiếp.
Qua Lửa thiêng và qua các tập thơ in sau 1945, Huy Cận thường được coi là có hồn thơ rộng mở ra đến vũ trụ. Giới thiệu thơ Việt Nam ra nước ngoài, Chế Lan Viên bảo Huy Cận vốn "thích các thế kỷ, thích các vòm trời", còn Xuân Diệu thì từ 1940 đã cho là ở người bạn mình có cái "nghiêng tai kỳ diệu".
Nhưng xem ra, thơ Huy Cận vẫn quá lành, con người trong thơ Huy Cận vẫn ở ngoài mà chưa đạt tới sự hòa nhập với vũ trụ, chưa bao giờ cả gan lang thang đi tìm bí mật của cái vũ trụ hoang tưởng đó như trong thơ Hàn Mặc Tử.
Huy Cận thường xuyên bắt gặp ở thiên nhiên một sự thông cảm. Mặc dù là một cái gì bát ngát xa lạ, song vũ trụ trong thơ Huy Cận khô ráo, trong sáng, thanh sạch, và thật dễ dàng chấp nhận con người. Đây là mấy câu thơ tiêu biểu:
Về phần mình, Hàn Mặc Tử không có điều kiện mà cũng không tính chuyện lấy thơ mình ra đối diện với cả không gian thời gian cao rộng. Hàn Mặc Tử chỉ lạ hóa ngay cái thiên nhiên sát kề bên mình. Nhưng đó là cái thiên nhiên ma quái, bí mật, thiên nhiên ướt át nhày nhụa lại nhiều bóng tối và những khoảng trống kỳ lạ, khiến người sống trong đó không bao giờ cảm thấy yên ổn. Cảm giác về sự hài hòa rất quen thuộc trong thơ Huy Cận. Bao trùm ở Lửa thiêng là cái tự bằng lòng, cái thanh thản thoải mái khi tiếp xúc với vũ trụ. Cảm giác ấy hết sức xa lạ với Hàn Mặc Tử. Luôn luôn ở Hàn Mặc Tử chỉ là xao xuyến bồn chồn, tưởng là mất mà lại thấy, tưởng là cầm nắm được mà lại trôi đi bay biến.
Thỉnh thoảng, có nói tới Thượng đế thì Huy Cận đã biết ngay rằng Thượng đế sẽ an ủi, vỗ về tâm hồn mình.
Hàn Mặc Tử không tính chuyện kéo Thượng đế về với cuộc sống phàm trần mà chơi vơi đuổi theo Thượng đế và trong cuộc truy đuổi đó, sẵn sàng thánh hóa.
Giữa hai nhà thơ này đã có bao nhiêu duyên nợ. Hơn thế nữa, người ta bảo họ là cùng trường phái với nhau (đây là nói trong phạm vi thơ Chế Lan Viên trước Cách mạng). Điều ấy có lý do của nó: Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên cũng muốn tạo ra một thế giới phi hiện thực, như Hàn Mặc Tử đã sống nó trong Đau thương, Xuân như ý. Họ chỉ khác nhau ở con đường đi tới thế giới ấy. Trong khi Hàn Mặc Tử tìm thấy nó trong mê man mê sảng, thì Chế Lan Viên có được nó bằng cách đẩy lý trí của mình đến cùng. Nói một cách hình ảnh: một bên Hàn Mặc Tử đi vào cõi hư vô như một con chiên ngoan đạo, áo quần tơi tả mà đi, chân đất mà đi, vấp ngã lại đứng dậy bước thấp bước cao đi tiếp; còn bên kia là Chế Lan Viên khôn ngoan tỉnh táo, tránh từng vũng nước nhỏ, từng quãng dốc trơn, đi theo lớp lang rành mạch, bước bước nào chắc bước ấy, thậm chí có ngã cũng là biết trước sẽ ngã. Nếu Hàn Mặc Tử đã đi là không trở lại thì Chế Lan Viên đi có điều kiện, đi tới rồi lại trở về. Bóng đêm, cuộc sống ban đêm, là một mô típ từng thấy ở nhiều bài thơ của hai thi sĩ, nhưng với Hàn Mặc Tử, đêm trăng này tiếp đêm trăng khác cả cuộc đời là những đêm trăng tiếp nối, còn với Chế Lan Viên, sau ban đêm còn có lúc vừng ô tới, ban ngày hiện ra. Sự kinh dị ở Chế Lan Viên, do đó, chỉ là kinh dị một nửa.
Một câu hỏi rất tiêu biểu cho Chế Lan Viên trong Điêu tàn:
- Ai bảo giùm ta có có ta không?
Không bao giờ có thể có ở Hàn Mặc Tử. Lý do đơn giản là Chế Lan Viên coi việc vòng vèo trong mê lộ của tiềm thức là để vươn tới trí tuệ. Còn Hàn Mặc Tử thì dừng lại vĩnh viễn ở tiềm thức. ở Hàn Mặc Tử chỉ có những triết lý ở dạng lơ lửng ngẫu nhiên và thường vẫn giữ được cái vẻ thơ riêng của nó.
4. Sau hết, xin có một chút liên hệ giữa thơ Nguyễn Bính và thơ Hàn Mặc Tử
Sở dĩ chúng tôi không so sánh vì hai nhà thơ này khác nhau quá.
Nhưng nói thơ họ đều là thơ hay (cả hai, đến hôm nay, đều được bạn đọc săn tìm), điều đó có lôgích không?
Câu trả lời: không có gì là không bình thường ở đây cả. Thơ có hai cực, cực phổ cập và cực siêu thoát. Ví dụ trong thơ Pháp hiện đại, Jacques Prévert như ca dao đồng dao, rất phổ cập, còn Saint John Perse rất siêu thoát, nghĩa là chỉ dành cho một số độc giả chọn lọc và cả hai đều là nhà thơ lớn. S.J.Perse còn được Nobel văn chương nữa. Trường hợp Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử cũng vậy. Lúc nào chúng ta cũng có thể ngâm ngợi vài câu thơ Nguyễn Bính lên và thấy rất gần gũi. Thơ Hàn Mặc Tử tồn tại kiểu khác: chỉ thỉnh thoảng ta mới tìm đến ông. Đó là những lúc lòng ta, trí ta, cách nghĩ về thế giới ta vượt ra khỏi khuôn khổ thông thường, ta thấy chung quanh quá nhàm chán và cảm thấy muốn được giải thoát. Những lúc ấy, có thể - tôi nói có thể chứ không phải tất yếu trong tất cả mọi trường hợp - thơ Hàn Mặc Tử lại là những giải đáp đích đáng nhất, ông đền bù cho ta, có cảm tưởng ông chỉ ông với ta là đủ rồi. Cái sung sướng của người đọc thơ lúc này là sung sướng đến rợn người.
Nói một cách tổng quát: Nguyễn Bính là nhà thơ rất người, rất hàng ngày. Còn Hàn Mặc Tử là nhà thơ của những lúc ta xuất thần, lúc ta thánh hóa. Những lúc ấy hiếm khi xảy ra nhưng vẫn là có.
Nếu không thể lấy thơ Nguyễn Bính để phủ nhận thơ Hàn Mặc Tử thì cũng tức là không thể nhân danh sự dễ hiểu để phủ nhận những cái ta còn chưa hiểu và chỉ một lúc nào đó mới hiểu, mới thích. Bài học rút ra ở đây; với người làm thơ bên cạnh hướng về sự phổ cập (như Nguyễn Bính) thì hướng về sự siêu thoát (như Hàn Mặc Tử) cũng là cả một hướng đi tốt đẹp. Nó không hứa hẹn sự thành công tức thời nhưng không phải vì thế mà nói là nó thiếu khả năng giúp các nhà thơ gia nhập vào thế giới của các giá trị vĩnh viễn.